Với
người Việt, trong gia đình (ngay cả người theo Công giáo) nhà nào cũng có ban
thờ và trong ban thờ một linh vật không thể thiếu được: Đó là bát hương hay bát
nhang dùng để cắm cây hương sau khi đã thắp. Nhưng việc bốc bát nhang hay sắp đặt
thế nào đâu phải ai cũng rõ. Bạn cần lưu ý những điểm sau:
1. Bát nhang
Là một vật linh thiêng dùng thờ cúng trong gia đình,
là biểu hiện Tâm linh trên ban thờ. Đó là nơi mỗi khi thắp hương tưởng niệm, cầu
cúng hướng tới tổ tiên, các vị thần linh hay gửi lòng thành kính vào cõi vô
hình rồi chủ nhân cắm nén hương vừa đốt vào.
Trong gia đình tùy theo trách nhiệm là con trưởng,
con thứ v.v... mà thờ phụng. Thông thường có 3 cấp bậc:
Thờ Phật: cầu mong sự bình an thanh thản đến với gia
đình, giải thoát tai ương.
Thờ Thần: thờ thổ công, long mạch, thần tài, tiền chủ
những vị cai quản mảnh đất mình cư ngụ, cầu giúp gia đình ăn ở yên ổn.
Thờ gia tiên: họ nhà mình và các bậc phụ thờ theo
tiên tổ. Nếu thờ tổ tiên họ tộc bên ngoại (trường hợp bên đó không có người thừa
tự) thì phải lập bát hương và ban thờ khác.
Nhiều nhà lập 3 Ban thờ nhưng đa phần (trong đó có
gia đình tôi) chỉ có một ban thờ. Một vẫn có tác dụng như vừa thờ gia tiên và
thổ công, điều cốt yêu là định vị tâm thức vào ban thờ, đặc biệt khi cúng khấn.
Nếu Tâm thành tuy một ban thờ nhưng thỉnh cầu vẫn tới cả Tổ tiên và Trời - Phật
- Thánh - Thần; vẫn có tác dụng phù hộ độ trì, che chở bảo vệ cho gia chủ. Còn
có lập nhiều ban thờ, thờ nhiều bát nhang mà phép tập hợp không đúng quy tắc
thì vô tình gia chủ đã tạo ra sự tán phát, gây loạn năng lượng và khi đó
không tác dụng phát huy sức mạnh Tâm linh khi cầu cúng.
Nhưng nhớ rằng các chư vị Thần, Thánh, Tiên, Phật đều
là những bậc sáng suốt, công bằng, vô tư, không biết ăn hối lộ của vật chất thế
gian do người trần dâng cúng. “Đức năng thắng số” và Luật Nhân Quả là luật
thiêng liêng của Trời Đất. Sự giàu có, thăng tiến không phải do van xin, mà là
do phúc đức từ kiếp trước, do tu dưỡng hiện thân.Việc thờ cúng, cầu khấn chỉ có
tác dụng phù trơh, thúc đẩy thêm và cốt nhất ở tâm thành. Còn nếu kiếp trước
gây nhiều việc ác, kiếp nầy làm nhiều việc xấu, tâm địa ác độc thì có lạy cầu đến
dập trán, bươu đầu cũng không thể khá hơn. Hoặc như có người chỉ chăm chăm đi cầu
đầu năm, giả lễ cuối năm nhưng cha mẹ sống thì đối xử tệ bạc, khi chất quên cả
ngày giỗ thì việc cầu cúng Thần, Thánh, Phật đó phỏng có ích gì?
2. Nguyên tắc đặt bát hương trên bàn thờ
Đặt bát hương trên ban thờ phải theo một nguyên
tắc nhất định của từng vùng. Bát nhang là nơi giáng của các hương linh,
thần, thánh, tổ tiên và cũng thể hiện sự thành kính của gia chủ đối với
cõi âm. Bát nhang thờ là hình thức hội tụ tâm thức. Giống như một sợi dây vô
hình để khi gia chủ thắp hương cầu nguyện là thần linh, tổ tiên có thể chứng
giám được lòng thành. Vì vậy bát nhang phải có sự phân chia riêng cấp bậc giữa
"quan lại" và chúng dân.
Với người dân vùng đồng bằng Bắc bộ và những cư dân
gốc ở đây thường là đặt 3 bát hương trên đế Tam sơn cho một ban thờ. Ba
bát hương này khi đứng từ ngoài nhìn vào thì: bà tổ cô bên trái, thổ công chính
giữa và gia tiên bên phải, Trong đó bát hương thổ công bao giờ cũng to hơn 2
bát kia và đặt ở vị trí cao hơn. Nhiều nhà đặt quá nhiều bát hương trên ban thờ
là không đúng cách, không tổ hợp được sức mạnh Tâm linh hoặc là, theo thời gian
số người mất trong gia chủ tăng lên thì bàn thờ cỡ bao nhiêu để bày cho đủ
số bát hương (cho Tổ tiên, Kị, Cụ, Ông Bà, Bố Mẹ, Bà Cô, Ông
Mãnh...). Mặt khác cũng không được dán giấy ghi rõ bát hương nào thờ Thần, bát
nào thờ Tổ tiên, bát nào thờ ai cụ thể. Bởi ghi như vậy là một việc làm trịnh
thượng vô tình đã "phạm thượng" với bề trên: người trần, con cháu quy
định cho chỗ đi về cho Thần linh và Tiên tổ!
3. Vấn đề bốc bát hương
Khi bốc bát hương phải nhờ thầy, đó là thầy chùa
(sư) hoặc pháp sư (người tu tại gia). Khi bốc bát hương các Thầy chú nguyện, thỉnh
thần linh, vong linh về an nhập. Thực chất đây là việc cung cấp cho các vật thờ
cúng một nguồn năng lượng ban đầu và sau này trong quá trình thờ cúng, năng lượng
đó ngày một tăng trưởng khiến cho độ linh thiêng ngày càng cao. Đây cũng tương
tự như việc Khai quang, Điểm nhãn cho tượng mỗi khi đúc xong, việc này có tác dụng
làm tăng linh khí của pho tượng và bát nhang trước khi thờ cúng, nhằm không cho
các vong linh hỗn tạp tá vào. Theo dân gian chỉ sau khi hoàn thành công đoạn
này thì việc mới biến một vật từ vô tri trở nên linh thiêng, bát nhang mới có
các vị Thổ công, Thần linh, Gia tiên theo chứng minh cho thân chủ khi vái cúng
và tạo được linh khí để có thể giúp đỡ, độ trì cho gia chủ.
4. Quy trình bốc bát nhang
Bát hương vốn là vật vô tri (bằng sứ hay bằng đồng)
chỉ sau khi thực hiện các thủ tục bốc bát hương thì bát hương đó mới
có tác dụng làn vật cắm nhang khi thờ cúng. Nếu bát hương không được bốc đúng
cách cũng giống như nhà không chủ. Khi đó Thần, Phật, Tổ tiên giáng lâm độ trì
thì ma quỷ cũng chen chân theo để quấy phá gia chủ.
- Khi mua bát hương cần chọn loại không có chữ
Hán viết ở thành.
- Đầu tiên khi mua một bát hương về thì phải rửa qua
nước muối rượu gừng có pha chút nước hoa hay thả vào mấy cánh hoa hồng cho thơm
để làm sạch những phần hữu hình rồi phơ cho khô hay đem xông trầm hương. Nước
đã dùng đổ ra trước sân hay vẩy chung quanh nhà, không đổ xuống cống.
- Sau đó lót ở đáy bát nhang một mảnh giấy trang kim
vàng (vừa để lót, vừa phòng các đồ yểm trong bát không bị cháy theo khi bát
nhang “hoá”).
- Bát nhang đã được làm đúng pháp là bát nhang có cốt:
Cốt bát nhang có 7 thứ báu (Thất bảo) như vàng, bạc, ngọc, mã não, san hô,...Tối
thiểu có 3 thứ: vàng, bạc, ngọc được bọc bởi 1 tờ giấy tráng kim dùng bút đỏ đã
được làm phép chú bút, chú giấy, chú mực ghi một số chữ (do sư ghi, chữ thiên
do các vị Thánh ngự ghế viết). Trong bát nhang còn có tiền âm ("Ngũ Lộ Thần
tài"), tiền dương màu đỏ mệnh giá mang số 5 (sinh) được gấp thành các chiếc
thuyền nhỏ xếp xung quanh khối cốt thất bảo.
- Sau đó đổ tro đốt bằng rơm nếp (hay trấu) mà ngày
nay thướng có bán tại các hàng mã vào cho đầy, đứng cho cát vì cát nặng. Dùng
trấu rất tốt bởi trấu bọc gạo là hạt ngọc của Trời, nó thanh sạch, cao quý.
- Nhiều người còn dán ra ngoài bát nhang ở chính diện,
nơi in hình mặt trời có 2 con rồng chầu vào một mảnh giấy đỏ có viết chữ bằng mực
Tàu tên của bát nhang.
- Sau cùng là đọc Kinh hay Chú Mật Tông, Tiên Gia
tùy theo môn phái của Thày để an vị Bát nhang. Khi làm phép lần đầu, người bốc
bát hương cắm cây chữ Thọ bằng đồng để thắp hương vòng; cắm 9 hay 3 cây nhang
tùy bát của Phật hay các tầng khác. Lúc an vị cần đặt bát hương ngay ngắn sao
cho mặt nguyệt (lưỡng nghi) nằm trên trục vuông góc với bàn thờ và theo hướng
bàn thờ và Bát nhang chính ở vị trí giữa (so với 2 cạnh bên bàn thờ).
Chỉ khi hoàn thành các công đoạn này thì bát
hương mới chính thức được đưa vào sử dụng làm vật thờ cúng và mới có đủ linh lực.
5. Sử dụng bát hương
Bát hương đã bốc xong, gia chủ phải đặt nơi bàn thờ
sạch sẽ, không nên để uế tạp. Mỗi khi sắp xếp lại ban thờ (thường vào 23 và 30
tháng Chạp) phải khấn vái, xin phép và chỉ được di chuyển bình hoa, chén nước,
đỉnh đồng, đèn,... còn bát nhang, bài vị đã định vị thì không được xê dịch. Khi
vệ sinh bát nhang, bài vị phải lấy tay giữ không cho xoay rồi lấy khăn sạch, ẩm,
phun rượu cho pha gừng giã nhỏ, nước hoa lau cho sạch.
Đồng thời, khi chân nhang quá nhiều cần rút bớt, nhớ
để lại 5 chân. Những chân nhang đã nhổ cần rồi đốt. thả tro xuống sông suối.
Bát nhang bỏ đi (ví dụ bát nhang của ban thờ vong) cần
thả xuống sông suối (tốt nhất là đặt trên miếng xốp nổi), tránh vất nơi uế tạp.
Nghiệm ra nhưng người (gia chủ hay vì chức trách) xử lý không đúng với bát hương
sẽ gặp sự không may.
Mỗi khi cầu cúng cần mở rộng cửa, thắp đèn trước (khởi
động), rót nước, rót rượu (dương cầu âm), rồi thắp hương (phát sóng) và khấn
cúng (kêu cầu). Chú ý thắp 3 hay 5 nén hương bởi 3, 5 là số lẻ, thuộc Dương mà
Dương thờ Âm là hợp lẽ. Nếu thắp quá nhiều hương sẽ mở đường cho Thập loại
chúng sinh đến, tạo ra sự lộn xộn, phiền toái cho Thần, Tổ tiên mình thỉnh cầu.
Nhớ rằng khi thắp phải để hương cháy đều, dùng tay phẩy nhẹ cho tắt lửa, không
thổi. Khi cắm hương cần cắm cho ngay ngắn mới có tác dụng dẫn lời thỉnh cầu tới
đúng nơi cần đến. Đồng thờ không cắm chồng các chân hương lên nhau nhằm tránh tạo
ra những lớp thô (cũ) và thanh (mới) và phòng bốc hoả.
Trường hợp bát hương tự nhiên bốc cháy, dân gian cho
rằng báo "điềm” hoá âm là khi chân hương cháy âm ỉ từ trong ra rồi đổ ra
xung quanh thường liên quan đến mồ mả, thờ cúng còn hoá dương là cháy từ trên
xuống có liên quan đến nhà cửa, cuộc sống hằng ngày. Khi đó cần để hoá hết
nhưng nhớ phòng hoả hoạn đừng dùng lửa dập tắt tránh "Thuỷ Hoả giao
tranh".
Nếu đang cầu cúng mà hương tắt cứ để thế mà châm lửa
tiếp, đừng nhổ lên đốt lại bởi khi nhổ lên cắm lại thành hương thừa, mất gốc, cầu
cúng mất linh nghiệm. Cổ nhân cho rằng, ngoài lý do hương kém phẩm thì cần phân
biệt:
Hương tắt phần trên là ở Thiên, liên quan đến nóc
nhà, ban thờ...
Hương tắt ở đoạn giữa là Nhân, liên quan đến thành
viên gia đình
Hương tắt đoạn cuối nghĩ đến Địa, liên quan đến mồ mả,
đất cát...
Xung quanh bát hương có nhiều việc cần biết. Song
còn do hoàn cảnh và tập tục mỗi nơi mỗi khác nhưng quan trọng cốt ở Tâm thành!