Chủ Nhật, 14 tháng 3, 2021

Đọc thêm về Lục thập hoa giáp với nguyên lý ngũ hành


Mọi sinh vật sống trong vũ trụ đã được nhận định theo luật âm dương. Cây cỏ cũng có hoa đực hoa cái, côn trùng con kiến cũng có con cái con đực, cho đến vật dụng hàng ngày hầu như cũng dị biệt giữa đực và cái . Luật âm dương chi phối vũ trụ mọi sự sinh hoạt . Không gian đã có thiên là phải có địa. Thời gian càng chịu ảnh hưởng nhiều hơn.

Đã có mùa đông giá lạnh, phải có mùa hạ nóng hầm, mùa xuân ấm tươi, phải có mùa thu dịu tàn.

Âm dương là tinh thần, phần vật chất là ngũ hành, Thiên can là dương, Địa chi là âm. Thiên can có ngũ hành của Can, Địa chi có ngũ hành của Chi. Ngũ hành của Can có cái dương và cái âm. Địa chi cũng vậy . Âm dương ngũ hành của Can có 10 chữ rất rành mạch. Nhưng địa chi sao lại 12, thấy trội dư 2 cái Thổ (1 dương và 1 âm) .

Thấy rằng thời gian của 4 thời tiết từ cái xanh tươi (xuân) đến nắng gắt (hạ) lần theo mát dịu (thu) kế tiếp lạnh lẽo (đông) rồi lại nối đến xanh tươi (xuân)... thời gian cứ quanh quẩn như thế phải mất trên 365 khoảng mặt trời đồng thời gian đêm tối.

Căn cứ theo đó đăt tên là 1 năm có 365 ngày trung bình. Khoảng thời gian này cứ cách 2 lần lại phải điều chỉnh thêm chút ít cho đúng như thời tiết luân lưu . Đó là năm nhuận dầu rằng âm lịch hay dương lịch cũng vậy (1). Một đằng tính 29 hay 30 ngày làm một tháng (âm lịch) một đằng lấy 30 hay 31 ngày là một tháng (trừ tháng 2  có 28 ngày) thì đến năm nhuận , một đằng lấy thêm một tháng , một đằng lấy thêm một ngày  cho vào tháng 2 là 29 ngày.

Khoảng 365 ngày căn cứ theo 4 mùa, nếu cũng lấy 10 địa chi như bên can thì chia nó lệch lạc, phải lấy thêm 2 cái thổ để ấn định  thêm 2 tháng, mỗi tháng khoảng chừng 30 ngày , tức mỗi mùa 3 tháng tròn , cứ như thế luân lưu lấy 4 mùa làm một khoảng thời gian chủ đích làm 1 năm.

Đáng lý 10 hoa giáp vào  với 12 chi sẽ thành 120, nhưng xếp dương vào với dương, âm đứng với âm (can và chi) nên chỉ còn con số 60 gọi là 60 hoa giáp.

Lục thập hoa giáp chính là sự kết hợp 6 chu kỳ hàng can với 5 chu kỳ hàng chi thành hệ 60. Vậy lục thập hoa giáp là gì?

Cách sắp xếp của bảng lục hoa giáp

Cách xắp xếp của bảng lục thập hóa giáp rất rộ ràng, từ Tý khởi đầu cho đến Lục âm Hợi của 12 địa chi.

– Hai vị Tý và Sửu là sự kết hợp âm dương vừa mới thụ thai, với con người thì coi như giai đoạn phát triển đầu tiên còn ở trong bào thai mẹ. Với vạn vật nói chung là giai đoạn tàng ẩn trong hạt, quả, gốc rễ mà mắt thường khó nhận ra được.

– Hai vị Dần và Mão là âm dương bắt đầu xuất hiện có thể nhìn thấy được, với con người là lúc vừa lọt lòng mẹ. Với vạn vật là giai đoạn nảy mầm, hình thành cây trái.

– Hai vị Thìn và Tỵ là giai đoạn âm dương bắt đầu thịnh vượng, vạn vật ở vào giai đoạn phát triển, con người ở vào giai đoạn thành tựu, chín chắn.

– Hai vị Ngọ và Mùi Ịà âm dương đã hiển lộ rõ rang, vạn vật phát triển đến giai đoạn cực thịnh. Với con người đã đến 50, 60 tuổi. Đời người vượng suy, giàu nghèo sang hèn cũng đã có thể biết được.

– Hai vị Thân và Dậu là âm dương đã bắt đầu thu lại, vạn vật rồi cũng đi đến tận cùng trở về trạng thái tĩnh lặng.

– Hai vị Tuất và Hợi, âm dương đã được khống chế, sức sống của vạn vật đã hoàn nguyên, lá rụng về cội, con người đã được nghỉ ngơi trở về cội nguồn.

Bảng nạp âm lục thập hoa giáp theo tuổi

Trong bảng nạp âm lục thập hoa giáp, chia làm 30 biểu tượng về ngũ hành nạp âm sau đây:

(1) Giáp Tý, Ất Sửu: Hải trung kim

Ngũ hành của địa chi Tý là thủy, thủy được coi là hồ, sông, biển lơn, nơi đó thủy thịnh vượng.

Theo vòng trường sinh kim cục, Tử ở Tý và Mộ ở Sửu, thủy ở thế vượng mà kim lại tử ở đó nên người ta gọi là Hải trung kim.

(2) Bính Dần, Đinh Mão: Lô trung hỏa.

Dần Mão ở địa chi là ngôi thứ 3 và thứ 4, ngũ hành là mộc, thiên can Bính, Đinh trong ngũ hành thuộc hỏa. Hỏa đã ở chính ngôi lại được Dần Mão thuộc Mộc trợ giúp, giai đoạn này trời đất ấm nóng lên như lửa trong lò mới bắt đầu, vạn vật mới bắt đầu sinh trưởng nên gọi là Lô trung hỏa.

(3) Mậu Thìn, Kỷ Tỵ: Đại lâm mộc.

Thìn Tỵ là 2 địa chi thuộc ngôi thứ 5 và 6, Thìn thổ đại diện cho đất đai ẩm ướt và hoang dã. Mộc ờ đất này phát triển tốt cây lá xum xuê, cây to lớn mọc thành rừng nơi đất hoang dã nên gọi là Đại lâm mộc.

(4) Canh Ngọ, Tân Mùi: Lộ bàng thổ

Mùi là địa chi ngôi thứ 8, Mùi thổ, nơi dưỡng mộc, mộc sinh hỏa làm cho Ngọ hỏa càng vượng. Ngọ hỏa vượng lại đốt thổ làm cho thố bị khô hạn cho nên thổ bị hại coi mình như bụi ven đường nên gọi là Lộ bàng thổ.

Lộ bàng thổ nếu được thủy tưới, có thể quay về với thổ mà sinh ra vạn vật, nếu được kim giúp thì có thể xây được cung điện phú quý.

(5) Nhâm Thân, Quý Dậu: Kiếm phong kim.

Thân Dậu thuộc ngôi thử 9,10 của địa chi, ngũ hành là kim và nằm trong giai đoạn phát triển của vạn vật. Theo vòng trường sinh kim cục thì Thân tọa ở “Lầm quan” Dậu tọa ở “Đế vượng”. Vậy Thân Dậu là nơi cực vượng của kim cục. Do đó kim ở đây rất cương cứng. Sự vật cương cứng thì không thể vượt qua được mũi kiếm, kim cứng được coi như mũi kiếm, nên gọi là Kiếm phong kim.

(6) Giáp Tuất, Ất Hợi: Sơn đầu hỏa

Tuất, Hợi trong địa bàn thuộc phương Tây Bắc, thuộc quái càn – càn biểu tượng của trời Tuất, Hợi là nơi cửa trời. Thiên can Giáp, Ất phương Đông thuộc ngũ hành mộc, mộc ở nơi cửa trời như gỗ cháy soi sáng cửa trời, ánh lửa chiếu sáng trên cao, cho nên gọi là lửa trên núi. Hoàng hôn, mặt trời xuống ngang núi, chiếu sáng lung linh cho nên lửa trên núi phản ánh được ráng trời.

Sơn đầu hỏa có thể thông với trời, người mệnh này hiển vinh và quý phái. Tuy nhiên núi phải có cây, lửa ở cửa trời kỵ gặp thủy, nếu gặp Đại hải thủy (Nhâm Tuất, Quý Hợi) thì nguy khốn.

(7) Bính Tý, Đinh Sửu: Giản hạ thủy

Vòng trường sinh thủy cục, Đế vượng ở Tý và Suy ở Sửu. Thủy vượng ở Bính Tý, lại suy ở Đinh Sửu, nên không thể là nước sông to mà chỉ là nước ở khe suối. Sau cơn mưa, nước từ sườn núi đổ xuống khe, khe hợp lại thành suối, nước theo dòng chảy xiết va vào đá mà bắn tung tóe, suối hợp lại thành dòng lớn, thành sông chảy về biển.

Nước khe núi là nước đầu nguồn, thủy gặp được kim phù hợp là kim trong cát và kim mũi kiếm (kim trong cát là: Giáp Ngọ, Ất Mùi, còn Kim mũi kiếm là Nhâm Thân, Quý Dậu.)

Thủy không gặp được mệnh của thổ và hỏa, thủy hỏa chẳng dung nạp nhau, thổ chỉ làm bẩn nước, tốt nhất là gặp Đại khê thủy (Giáp Dần, Ất Mão), tức nước suối nho nhỏ hợp thành sông là hợp với đạo trời.

(8) Mậu Dần, Kỷ Mão: Thành đầu thổ

Địa chi Dần Mão, ngũ hành mộc, thiên can Mậu Kỷ ngũ hành thổ, thổ trung ương. Hình tượng cây cối mọc xung quanh thành liên tưởng đến khái niệm tích thổ thành núi, đắp đất thành tường nên gọi là đất trên thành.

Kinh đô nơi Hoàng đế cư ngụ gọi là thành, thành xưa kia đắp bằng đất, xây bằng gạch, uy thế bốn phương.

Mệnh này gặp nước, gặp núi là hiển vinh, trong thành gặp núi giả, nước tù thì không tốt. Kỵ gặp Đại hải thủy (Nhâm Tuất, Quý Hợi) Tích lịch hỏa (Mậu Tý, Kỷ Sửu).

(9) Canh Thìn, Tân Tỵ: Bạch lạp kim.

Kim vốn sinh ra từ trong lòng đất, nhưng lại nhờ có hỏa mà hình thành vật dụng hữu ích. Ở đây hình thái của kim đã bắt đầu hình thành nhưng độ cứng rắn chưa có, nên gọi là kim giá đèn (Bạch lạp kim) Kim mới bắt đầu phát triển, giao hòa với trái đất mà kết khí âm dương.

Vì tính chất như vậy nên kim giá đèn thích hỏa như Ất Tỵ, gọi là “Phong mãnh hổ cách” Thi cử học tập thuận lợi và thích thủy như Ất Dậu, Quý Tỵ cũng được coi như mệnh quý, Bạch lạp kim đó cứng rắn còn yếu nên sợ gặp mộc.

(10) Nhâm Ngọ, Quý Mùi: Dương liễu mộc

Mộc cục, vòng trường sinh Tử ở Ngọ và Mộ ở Mùi. Vì vậy mộc chỉ có thể mượn thiên can Nhâm, Quý ngũ hành thủy để cứu sống. Tuy vậy sức sống của mộc vẫn yếu ót nên gọi là gỗ cây liễu.

Cây dương liễu chỉ thích hợp với thổ là Bính Tuất và Đinh Hợi, và thích hợp với tất cả các mệnh thủy trừ Đại hải thủy.

Bản tính Dương liễu mộc là yếu đuối nên kỵ gặp hỏa, kỵ gặp thạch lựu mộc (canh Thân, Tân Dậu) sẽ bị áp chế, một đời bần hàn vất vả.

(11) Giáp Thân, Ất Dậu: Tuyền trung thủy

Kim cục, vòng trường sinh kiến lộc (Lâm quan) ở Thân, đế vượng ở Dậu. Vậy kim ở đây là cực vượng, kim dựa vào hỏa để sinh thủy, tuy vậy thủy mới được sinh thì còn yếu ớt, lại không vượng nên gọi là nước trong suối. Thủy sẽ không bao giờ ngừng khi có kim.

Vì vậy thủy ưa thích gặp Sa trung kim (Giáp Ngọ, Ất Mùi) và Thoa xuyến kim (Canh Tuất, Tân Hợi), thủy gặp mộc cũng tốt.

Nếu trong tứ trụ, trụ năm và giờ đều có thủy, trụ ngày và tháng đều có mộc thì đây là mệnh đại phú quý.

(12) Mậu Tý, Kỷ Sửu: Tích lịch hỏa

Địa chi Tý thuộc ngũ hành thủy, Sửu thuộc ngũ hành thổ, Tý thủy ở cho nên nạp âm là hỏa, tức hỏa trong thủy. Như vậy chỉ có thể là lửa sấm sét, sấm sét liền với tỉa chớp biến không cùng. Về bản chất thủy hỏa vốn chẳng bao giờ hòa hợp mà nay thủy hỏa hợp nhất, ngày xưa cho là một loài rồng thần.

Tích lịch hỏa với thổ, thủy, mộc gặp nhau, hoặc tốt hoặc là vô hại, kỵ gặp hỏa, hai hỏa gặp nhau là xấu.

(13) Bính Tuất, Đinh Hợi: ốc thượng thổ
Tuất Hợi như cánh cửa trời, Bính Đinh ngũ hành hỏa, Tuất Hợi một thổ, một thủy hòa lại thành đất dẻo, được hỏa nung lên mới thành gạch ngói làm mái nhà. Đất trên mái nhà, đương nhiên chỉ là gạch ngói, muốn lợp nhà thì cần phải có gỗ (mộc) làm xà đỡ và cần kim để trang trí. Vì vậy gặp kim mũi kiếm, kim trang sức đều là mệnh phú quý.
Nhà cửa tất sợ lửa cháy cho nên ốc thượng thổ sợ gặp hỏa, nhưng nếu gặp Thiên thượng hỏa là ánh nắng mặt trời thì lại rất tốt.
(14) Canh Dần, Tân Mão: Tùng bách mộc
Mộc cục, theo vòng trường sinh Lâm quan ở Dàn và Đế vượng ở Mão, mộc ở Dần Mão là thế thịnh vượng không phải là loại yếu đuối cho nên người xưa gọi là gỗ cây thông, cây tùng.
Cây tùng, cây thông là loại cây có sức sống và chịu đựng mãnh liệt, có thể hứng tuyết mùa đông, có thể hứng sương, che nắng mặt trời.
Trong hỏa chỉ có lửa trong lò (Bính Dần, Đinh Mão) và trong thủy chỉ có Đại hải thủy (Nhâm Tuất, Quý Hợi) mới có thể hại được tùng bách mộc. Tuy là cùng hành mộc như Đại lâm mộc, Dương liễu mộc nhưng chất không giống nhau dễ sinh lòng hiềm khích đố kỵ.
Tùng bách mộc thích gặp kim, có kim gỗ mới trở thành vật dụng hữu ích được.
(15) Nhâm Thìn, Quý Tỵ: Trường lưu thủy
Trong thủy cục, Thìn là mộ kho (Thân Tý Thìn) là nơi tích trữ nước, Tỵ ngũ hành hỏa là Trường sinh của kim cục, trong ngũ hành kim vốn sợ thủy, nhưng kim trong Tỵ có hàm chất thủy. Bởi vì nơi tích trữ thủy lại gặp kim sinh thủy nên nguồn thủy dồi dào và liên tục nên gọi là nước sông dài (Trường lưu thủy). Trường lưu thủy ở quái tốn, Đông Nam lấy yên tĩnh làm quý.
Nước sông dài gặp kim sinh thủy là tốt, kỵ gặp thủy vì thủy nhiều dễ gây lụt lội cũng kỵ gặp thổ tương khắc như ốc thượng thổ (Bính Tuất, Tân Hợi) và Bích thượng thổ (Canh Tý, Tân Sửu) thì khó tránh được tai ách.
Thủy hỏa tuy là tương khắc, nhưng cũng có trường hợp dung nạp lẫn nhau, như nước sông dài gặp lửa ngọn đèn (Giáp Thìn), lửa trên núi (Ất Hợi). Nhưng Thìn là rồng, rồng gặp thủy, có ý như là rồng về với biển, cách này lại là rất tốt.

(16) Giáp Ngọ, Ất Mùi: Sa trung kim

Vòng trường sinh của hỏa cục: Ngọ là Đế vượng, Mùi là Suy, hỏa vượng thì kim suy, hỏa yếu kim mới có thể trưởng thành. Còn hỏa bắt đầu suy, kim mới hiện hình chưa có lực, chưa kịp lớn mạnh nên gọi là kim trong cát (Sa trùng kim)

Kim cần phải có hỏa để luyện, nếu hỏa quá vượng kim sẽ bại, cần có mộc để điều phối kim, đồng thời nếu lấy lửa trên núi, lửa dưới núi, lửa ngọn đèn có tính ôn hòa để luyện lại kim. Mệnh như vậy người xưa cho rằng đó là mệnh cục của thiếu niên vương giả.

Sa trung kim cần thủy tĩnh, kỵ nước biển lớn và nước sông dài vùi mất kim, cần phối hợp với nước khe suối, nước trong suối và nước trên trời. Đồng thời kỵ gặp đất bên đường, đất trong cát dễ bị chôn vùi.

(17) Bính Thân, Đinh Dậu: Sơn hạ hỏa

Thân ở Tây Nam, thuộc quái Khôn (Mùi Khôn Thân) có thể gọi là cửa mở xuống đất. Bính Đỉnh là hỏa là mặt trời, giờ Dậu là lúc hoàng hôn, mặt trời lặn. Hàng ngày đến giờ Dậu giống như mặt trời đi xuống núi nên gọi là lửa dưới núi (Sơn hạ hỏa) giờ Dậu, lửa dưới núi gặp thổ là tốt. Là ánh sáng mặt trời vào đêm nên không thích gặp lửa sấm sét, lửa mặt trời cũng như lửa đèn.

(18) Mậu Tuất, Kỷ Hợi: Bình địa mộc

Mậu thổ được coi như đồng bằng, Hợi là Trường sinh của mộc cục, cây sinh ở đồng bằng không thể là rừng, chỉ là ruộng vườn với các giống cây nhỏ mặc dù diện tích trồng rộng lớn. Nên gọi là cây đồng bằng (Bình địa mộc)
Cây đồng bằng thích mưa không thích sương giá băng tuyết, sợ chặt phá nên kỵ gặp kim, gặp kim là bất lợi, ưa thủy, thổ và mộc.

(19) Canh Tý, Tân Sửu: Bích thượng thổ

Sửu, chính ngũ hành thổ, Tý là Đế vượng của vòng trường sinh thủy cục, thổ gặp phải thủy vượng mà biến thành bùn. Đất bùn chỉ có thể đắp tường, đắp đê, đắp đập, nên gọi là đất trên tường (Bích thượng thổ)

Đất trên tường dùng để làm nhà, phải có cột xà bằng gỗ nếu gặp mộc là tốt, kỵ gặp hỏa dễ hỏa hoạn, gặp thủy cũng tốt trừ nước biển lớn (Đại hải thủy) với kim chỉ ưa kim bạc kim.

(20) Giáp Thìn, Ất Tỵ: Phúc đăng hỏa

Thìn về thời gian là lúc mà trời đã sáng, Tỵ là giờ buổi trưa, vào giờ Thìn, Tỵ mặt trời sáng rực rỡ, không cần phải dùng đèn chiếu sáng nữa. Cho nên hỏa ở đây rất bé nhỏ, chỉ được xem như lửa ngọn đèn. Ánh sáng của đèn chỉ dùng những chỗ mà mặt trời, mặt trăng không thể chiếu sáng tói được.

Nói cách khác, lửa ngọn đèn chính là lửa chiếu sáng dùng cho ban đêm, ngày xưa ngọn đèn đi liền với gỗ và dầu. Dầu ngũ hành thủy, vậy lửa ngọn đèn gặp mộc và thủy là tốt, ban đêm chủ về âm tính nên lửa ngọn đèn kỵ mặt trời (dương).

Lửa ngọn đèn có hai loại mệnh quý: một là “che đèn thêm đâu”, chỉ lửa ngọn đèn gặp nước dưới giếng, nước dưới khe, nước sông dài. Và một nữa là “dưới đèn múa kiếm”, chỉ ngọn lửa đèn gặp kiếm phong kim.
Lửa ngọn đèn còn sợ gặp thổ là đất mái nhà (Bính Tuất, Đinh Hợi)
Lửa ngọn đèn thích hỏa nhưng trừ lửa sấm sét dễ làm tắt đèn.

(21) Nhâm Dần, Quý Mão: Kim bạc kim

Mộc cục, vòng trường sinh Lâm quan ở Dần, Đế vượng ở Mão, Dần Mão là nơi mộc vượng. Nơi mộc vượng cũng là nơi kim bị gầy yếu, nhược. Kim Tuyệt ở Dần, Thai ở mão, kim mềm yếu, không có lực tại Dần Mão nên gọi là kim loại trang sức (Kim bạc kim).

Kim bạc kim làm đồ trang sức, ngày xưa dùng nhiều trong trang trí kiến trúc đền chùa hay cung điện của Hoàng đế. Chất liệu kim và ánh sáng của nó đẹp đẽ tôn quý, nguồn gốc do kim được chế tác mà thành.

Sách xưa nói rằng, mệnh Kim bạc kim gặp đất trên thành (Mậu Dần, Kỷ Mão) gọi là “viên ngọc núi côn sơn”.
Quý Mão của Kim bạc kim gặp Kỷ Mão của đất trên thành gọi là: “Thỏ ngọc đông thăng” là mệnh quý. Ý nói Kim bạc kim là phải được sử dụng ở đền chùa, lâu đài cung điện mới là quý.

(22) Bính Ngọ, Đinh Mùi: Thiến hà thủy.

Bính Đinh, ngũ hành thuộc hỏa. Vòng trường sinh hỏa cục, Ngọ là đế vượng, thủy sinh ra từ hỏa nên có thể xem như nước ở trên trời, nước ở trên trời rơi xuống thành mưa, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của vạn vật.

Nước ở trên trời cao, cho nên kim, mộc, thủy, hỏa, thố ở dưới đất không thể khắc chế được, trừ trường hợp đất trên tường (Canh Tý, Tân Mùi) là tương xung nên kỵ gặp.

(23) Mậu Thân, Kỷ Dâu: Đai trach thổ

Thân ở hướng Tây Nam, thuộc quái Khôn đại biểu là đất. Dậu ở hướng Tây thuộc quái Đoài, đại biểu cho ao đầm, Mậu Kỷ thuộc ngũ hành thổ. Chính là đất ở trên mặt đất hay ao hồ giống như bụi bay trong không khí. Cho nên gọi nó là đất dịch chuyển, có sách cho là đất vườn lớn.

Tại Thân Dậu, âm dương bắt đầu thu lại, nguyên khí dần hồi phục giống như đất dịch chuyển quay về mặt đất. Như con người hay vạn vật trở về với bản tính tự nhiên trường tồn) trong vũ trụ.

Đại trạch thổ thích nước yên tĩnh như nước giếng, nước dưới khe, nước sông dài. Nó cũng thích kim thanh tú như kim bạc kim, thoa xuyến kim.

Đại trạch thổ kỵ gặp nước biển lớn, lửa trên núi, lửa ngọn đèn.

(24) Canh Tuất, Tân Hợi: Thoa xuyến kim

Kim cục, vòng trường sinh Suy tại Tuất, Bệnh tại Hợi, kim tại nơi vừa suy vừa bệnh nên rất yếu ớt mà gọi là kim trang sức (Thoa xuyến kim). Vậy nên kim trang sức sợ gặp hỏa, thích gặp nước giếng, nước khe, nước trong suối, nước sông dài, kỵ gặp nước biển lớn như cát nơi đáy biển. Ngoài ra còn ý thích đất trong cát vì thổ là nơi dưỡng kim.

(25) Nhâm Tý, Quý Sửu: Tang đố mộc

Ngũ hành của Tý là thủy, của Sửu là thổ, thổ sinh kim, thủy sinh mộc, làm cho mộc phát triển xanh tươi, nhưng kim khắc, ý mộc lại có thể chặt nó. Người ta ví mộc mới sinh trưởng như giống cây dây dễ bị chặt nên gọi là gốc cây dâu (Tang đố mộc).

Trong quá trình sinh trưởng, nếu gỗ cây dâu gặp đất trong cát, đất ven đường, đất dịch chuyển thì rất tốt. Nếu gặp nước sông dài, nước dưới khe, nước trong suối sẽ được tưới tắm xanh tốt. Nếu gặp Canh Dần, Tân Mão, gỗ cây tùng thì càng tốt. Vì thân cây yếu dựa vào cây khỏe mà giúp nhau tồn tại. Nếu không gặp gỗ cây liễu thì “dâu liễu thành rừng” cùng loại thân yểu. Kết lại với nhau mà an cư lập nghiệp, chỉ kỵ gặp gỗ đồng bằng sẽ bị chèn ép tàn phá.

(26) Giáp Dần, Ất Mão: Đại khê thủy

Dần Mão thuộc phương Đông, là nơi gió đông thịnh vượng. Nếu dòng chảy chính Đông với các nước Á Đông – hướng Đông. Vậy nên gọi là nước suối lớn.

Nước suối lớn đổ về sông, sông chảy ra biển nên dòng chảy là liên tục, không dứt, vì thế nước suối lớn nên gặp kim sinh thủy giúp sức. Nếu gặp thổ khắc hoặc phải tiết khí cho mộc đều không hay. Chỉ có‘thể gặp Tang đố mộc là được, người ta luận rằng Nhâm Tý là Thủy, Quý Sửu là núi, lại gặp nước, sách gọi là “nước chảy quanh núi” là mệnh quý.

(27) Bính Thìn, Đinh Tỵ: Sa trung thổ

Thổ cục, vòng trường sinh Mộ ở Thìn, Tuyệt ở Tỵ (thủy thổ đồng cục) Bính Đinh ngũ hành hỏa. Hỏa cục, Quan đới ở Thìn, Lâm quan ở Tỵ. Ở Thìn, Tỵ, thổ bị Mộ Tuyệt, hỏa thì thịnh vượng khiến cho nó có thể làm lại mới tất cả.

Người ta ví như những đốm tro khi đốt bay lên trời rồi rơi xuống thành thổ. Nên gọi là đất trong cát (sa trung thổ).
Đất trong cát gặp kim là quý, thích gặp lửa trên trời, có ánh nắng mặt trời, bãi cát dài trên sông trên biển mới đẹp rạng ngời. Thích gỗ cây dâu và cây dương liễu, vì hai loại gỗ này cần đất của nó, kỵ gặp các loại mộc, hỏa khác.

(28) Mậu Ngọ, Kỷ Mùi: Thiên thượng hỏa

Hỏa cục, Ngọ là đế vượng tức cực thịnh của hỏa, Mùi và Kỷ thổ là nơi mộc sinh trưởng, mộc sinh hỏa khiến hỏa càng mạnh hơn.

Hỏa mạnh bốc cao nên gọi là lửa trên trời, lửa trên trời chính là lửa của mặt trời nên thích gặp mộc, thủy, kim để điều hòa, sao cho thủy giúp cho mộc phát triển xanh tươị, mộc giúp hỏa bốc cháy mạnh mẽ.

Thiên thượng hỏa .chỉ thích lửa ngọn đèn ngoài ra đều tương khắc với các hỏa khác, thích gặp thổ, nếu có kim mộc nữa thì tạo thành mệnh quý.

(29) Canh Thân, Tân Dậu: Thạch lựu mộc

Hai vị Thân và Dậu ở nơi âm dương đã bắt đầu thu lại, vạn vật chuẩn bị đi vào hồi kết. Tân và Dậu đại biểu cho tháng 7 và 8 khi mà cây cối đang bắt đầu tàn lụi. Chỉ có cây thạch lựu kết trái mà gọi Canh Thân, Tân Dậu là gỗ cây lựu. Vì kết trái vào mùa thu nên cây lựu, tính mộc cứng rắn, gặp thủy, mộc, thổ, kim qua lại có thể hòa hợp tốt, kỵ nước biển lớn, thủy ào ạt làm nó bần cùng và tai ách.

Gỗ thạch lựu thường bao hàm mệnh quý như sinh tháng 5 (Ngọ) mà trụ ngày hoặc trụ giờ lại có mang một hỏa gọi là “thạch lựu phun lửa” gặp dương liễu mộc gọi là “hoa hồng liễu xanh”.

(30) Nhâm Tuất, Quỷ Hợi: Đại hải thủy

Thủy cục, Quan đới tại Tuất, Lâm quan tại Hợi, do đó tại Tuất Hợi là nơi thủy đang thịnh vượng, ngũ hành của Hợi thuộc thủy, hình tượng như cửa sông đổ ra biển, nên gọi là nước biển lớn.

Nước biển lớn chính là đại dương mênh mông, nơí qui tụ của tất cả các dòng sông, vì thế các loại nước trên trời, nước sông dài, nước suối lớn… gặp nước biển đều rất tốt.

Nhâm Thìn trong nước sông dài gặp nước biển lớn gọi là “rồng quay về biển” mệnh này phú quý không gì bằng.
Gặp hỏa, nó thích lửa trên trời vì mặt trời mọc ở biển Đông, gặp kim nó thích kim đáy biển, gặp mộc nó thích gỗ cây dâu, gỗ dương liễu, gặp thổ nó thích đất dịch chuyển và đất bên đường. Ngoài ra tất cả đều không chịu nổi nước biển lớn. Nếu gặp lửa sấm sét sẽ tạo nên nước hung hãn, phong ba bão táp, một đời lao khổ.

Nhìn vào 60 hoa giáp từ Giáp Tí đến Quí Hợi, 2 chữ Can Chi đứng chung với nhau không khác gì một tiểu gia đình. Can đứng trên làm gốc (chồng) , chi tiếp theo là phụ (vợ) . Biết rằng mỗi Can hay Chi đều có một tính chất riêng biệt là ngũ hành. Gia đình nào phu thê đầm ấm , sự nghiệp dầu lớn hay nhỏ hẳn là bước đường đời phải cứ sự tươi đẹp tương đối hơn ai, trái ngược vợ chồng xung khắc. ngày tháng trôi nổi trống đánh xuôi , kèn thổi ngược, tưởng sự bất hạnh phải lâu nhiều hơn người.

Năm tuổi căn cứ vào Can và Chi, từ Giáp đến Quí ( Can) vào với Tí đến Hợi (Chi) hẳn có sự luân phiên thay đổi, nhưng thay đổi tốt hay xấu phải phân tích cho ra nguyên lý và cũng là nguyên “ý“ của Phục Hy âm thầm chỉ dẫn kín đáo.

Hai chữ Can và Chi đứng với nhau không khác gì tình cảnh của một gia đình có hoà hợp mới nên sự nghiệp, còn xung khắc nhau làm sao có hưng vượng.

Như 2 tuổi Canh Thân và Canh Dần cùng là Mộc mệnh, thật ra cảnh đề huề của mỗi tuổi một khác. Canh là Kim, Thân là Kim, cũng như cây có gốc (Can) ngọn (Chi) đều nhau hẳn là có 1 căn bản vững chắc, dẫu không hơn người cũng không hề kém ai. Còn Canh Dần thì Can Canh (Kim)  khắc Chi Dần (Mộc). Cây mà gốc không tải bồi cho ngọn làm sao mà sinh nở tốt đẹp cho nổi, khác gì gia đình trống đánh xuôi kèn thổi ngược.

Hai tuổi Giáp Tí và Giáp Ngọ thấy cả 2 tuổi cùng tương sinh gốc ngọn, nhưng Giáp Ngọ khác biệt bỏ xa Giáp Tí  rất nhiều. Giáp Ngọ có Can Giáp (Mộc) sinh cho Chi Ngọ (Hoả) nghĩa là gốc nuôi ngọn là thuận cảnh. Trái lại Giáp Tí thì Can Giáp (Mộc ) được Chi Tí (Thuỷ) sinh lại tức là ngọn nuôi gốc tuy cũng là cảnh tượng sinh nhưng ngược chiều cho biết ngay Giáp Tí không có khả năng vững chắc mà sự đề huề chỉ là may mà có. Huống chi Giáp Ngọ còn tiềm tàng căn bản phồn thịnh là tam hợp Lộc Tồn của tuổi Giáp (Lộc tồn ở Dần) Thiên Lộc dành riêng cho người Dần Ngọ Tuất. Còn Giáp Tí đứng ngõ ngoài, muốn hưởng Lộc Tồn phải là Canh Tí (Canh Kim sinh Tí Thuỷ và Thân Tí Thìn là tam hợp hưởng Lộc Tồn tuổi Canh  ở Thân).

Hai tuổi Giáp Thìn và Giáp Tuất là 2 tuổi đều hàng Can Giáp (Mộc) khắc Chi Thìn Tuất (Thổ). Hai tuổi này cũng cách biệt nhau cả một dặm đường: Giáp Tuất tuy Can khắc Chi, cuộc đời thấy nhiều trở lực, nhưng còn được dự phần tham dự chia sẻ Thiên Lộc tuổi Giáp. Giáp Thìn kể như là khách đi đường không liên quan gì đến, lại còn bị cảnh nghèo túng là Lộc Tồn thường trực có Tuần đóng kín, chỉ còn trông cậy vào bộ sao Sát Phá Tham nếu được thủ mệnh sống theo Hoá Lộc, tay làm hàm nhai. Trường hợp tuổi Giáp Thìn, mệnh đóng ở vị trí tam hợp Hợi Mão Mùi dầu được bộ Sát Phá Tham là nòng cốt cũng chỉ là kiếp nhân sinh được tạo hoá nặn ra để trả nợ đời, không mong gì sự nâng đỡ vì vị trí của Sát Phá Tham  ở Hợi Mão Mùi, trường hợp nào cũng là đen tối, cố công xây đắp mấy cũng chỉ là hữu công vô lao (vị trí Thiếu âm Long đức Trực phù của tuổi Giáp Thìn).

Tóm lại tuổi của mỗi cá nhân có thể sắp xếp theo thứ tự tốt xấu có 5 bậc thang như sau:

1/ CAN sinh CHI: Phúc đức quá lớn tiềm tàng một căn bản hơn người

2/ CAN CHI đều nhau : có năng lực khá đầy đủ vững chắc

3/ CHI sinh CAN: đời gặp may nhiều hơn thực lực

4/ CAN khắc CHI: đời gặp nhiều trở lực

5/ CHI khắc CAN: nghịch cảnh đầy rẫy chua cay

Theo luật ngũ hành cái gì tương sinh là tốt, tương khắc là xấu. Vậy có thể hoạch phát một nguyên tắc như:

a/ Tốt nhất:  Can sinh Chi (ví dụ tuổi Giáp Ngọ. Can Giáp ( Mộc) sinh Chi Ngọ (Hoả).

b/ Tốt thứ nhì: Can và Chi đồng hành ( Ví dụ tuổi Giáp Dần. cả 2 đều là Mộc).

c/ Tốt thứ ba: Chi sinh Can (ví dụ tuổi Giáp Tí . Chi Tí (Thuỷ) sinh Can Giáp (Mộc).

d/ Xấu tương đối: Can khắc Chi ( ví dụ tuổi Giáp Thìn. Can Giáp Mộc khắc Chi Thìn (Thổ) .

đ/ Nghịch cảnh: Chi khắc Can (ví dụ tuổi Giáp Thân: Chi Thân (Kim) khắc Can Giáp (Mộc)

Năm trường hợp này chỉ là một tấm thu hình rất nhỏ của kiếp nhân sinh . Sự hên xui đã ấn định như thế đó, còn tuỳ định mệnh phác hoạ hạnh phúc (vòng lộc tốn) tuỳ vị trí an Mệnh Thân (vòng Thái Tuế bổ khuyết tư thế) , nhất là Thân ( chính đương số với vòng tràng sinh) đã khuôn xử làm được những gì để mua chuộc.

Như tuổi Ất Mùi , Mệnh ở Mùi (Thái Tuế) , Thân ở di (Tuế Phá) biết chữ ất (Mộc) khắc chữ Mùi (Thổ) là đời tất nhiên gặp nhiều bước khó khăn. Nhưng Hợi Mão Mùi là 3 tuổi được hưởng hạnh phúc (Lộc tồn của tuổi Ất) Thân ở Di (nghịch cảnh) là cung Sửu cô lập được chữ THỌ cho phụ mẫu , thì định mệnh mới ngăn cản được phần nào, nhiều hay ít là do chữ Tài được mệnh điều động đến ách cung .

Tóm lại vận hạn của từng cá nhân, nguyên lý là do thời tiết. Đã có cái nóng phải có cái lạnh, đã có xanh tươi phải có vàng héo từng năm xuống đến tháng ngày giờ sinh thì đắc cách , khắc thì tai ương, phần chánh yếu là ở cái gốc (hàng can).Gốc được tưới bón hợp thời, cây được xanh tốt, gốc mà bị chặt cắt, dầu cây đương có nhiều hoa nụ tươi thắm, cũng phải úa vàng héo gục.

>>Bảng đối chiếu Lục thập hoa giáp ngũ hành và cách tính tuổi xung khắc

Số

Ngày tháng năm

Ngũ hành

Tuổi xung khắc

1

Giáp tý

Vàng trong biển (Kim)

mậu ngọ, nhâm ngọ, canh dần, canh thân

2

ất sửu

 

Kỷ mùi, quí mùi, tân mão, tân dậu

3

Bính dần

Lửa trong lò (Hoả)

Giáp thân, nhâm thân, nhâm tuất, nhâm thìn

4

Đinh mão

 

ất dậu, quí dậu, quí tị, quí hợi

5

Mậu thìn

Gỗ trong rừng (Mộc)

Canh tuất, bính tuất

6

Kỷ tị

 

Tân hợi, đinh hợi

7

Canh ngọ

Đất ven đường (Thổ)

Nhâm tý, bính tý, giáp thân, giáp dần

8

Tân mùi

 

Quí sửu, đinh sửu, ất dậu, ất mão

9

Nhâm thân

Sắt đầu kiếm (Kim)

Bính dần, canh dần, bính thân

10

Quí dậu

 

Đinh mão, tân mão, đinh dậu

11

Giáp tuất

Lửa trên đỉnh núi (hoả)

Nhâm thìn, canh thìn, canh tuất

12

ất hợi

 

Quí tị, tân tị, tân hợi

13

Bính tý

Nước dưới lạch (Thuỷ)

Canh ngo, mậu ngọ

14

Đinh Sửu

 

Tân mùi, kỷ mùi

15

Mậu dần

Đất đầu thành (Thổ)

Canh thân, giáp thân

16

Kỷ mão

 

Tân dậu, ất dậu

17

Canh thìn

Kim bạch lạp (Kim)

Giáp tuất, mậu tuất, giáp thìn

18

Tân tị

 

ất hợi, kỷ hợi, ất tị

19

Nhâm ngọ

Gỗ dương liễu (Mộc)

Giáp tý, canh ty, bính tuất, bính thìn

20

Quí mùi

 

ất sửu, tân sửu, đinh hợi, đinh tị

21

Giáp thân

Nước trong khe (Thuỷ)

Mậu dần, bính dần, canh ngọ, canh tý

22

ất dậu

 

Kỷ mão, đinh mão, tân mùi, tân sửu

23

Bính tuất

Đất trên mái nhà (Thổ)

Mậu thìn, nhâm thìn, nhâm ngọ, nhâm tý

24

Đinh hợi

 

Kỷ tị, quí tị, quí mùi, quí sửu

25

Mậu tý

Lửa trong chớp (Hoả )

Bính ngọ, giáp ngọ

26

Kỷ sửu

 

Đinh mùi, ất mui

27

Canh dần

Gỗ tùng Bách (Mộc)

Nhâm thân, mậu thân, giáp tý, giáp ngọ

28

Tân mão

 

Quí dậu, kỷ dậu, ất sửu, ất mùi

29

Nhâm thìn

Nước giữa dòng (Thuỷ)

Bính tuất, giáp tuât, bính dần

30

Quí tị

 

Đinh hợi, ất hợi, đinh mão

31

Giáp ngọ

Vàng trong cát (Kim)

Mậu tý, nhâm tý, canh dần, nhâm dần

32

ất mùi

 

Kỷ sửu, quí sửu, tân mão, tân dậu

33

Bính thân

Lửa chân núi (Hoả)

Giáp dần, nhâm thân, nhâm tuất, nhâm thìn

34

Đinh dậu

 

ất mão, quí mão, quí tị, quí hợi

35

Mậu tuất

Gỗ đồng bằng (Mộc)

Canh thìn, bính thìn

36

Kỷ hợi

 

Tân tị, đinh tị.

37

Canh tý

Đất trên vách (Thổ)

Nhâm ngọ, bính ngọ, giáp thân, giáp dần

38

Tân sửu

 

Quí mùi, đinh mùi, ất dậu, ất mão

39

Nhâm dần

Bạch kim (Kim)

Canh thân, bính thân, bính dần

40

Quí mão

 

Tân dậu, đinh dậu, đinh mão

41

Giáp thìn

Lửa đèn (Hoả)

Nhâm tuất, canh tuất, canh thìn

42

ất tị

 

Quí hợi, tân hợi, tân tị

43

Bính ngọ

Nước trên trời (thuỷ)

Mậu tý, canh tý

44

Đinh Mùi

 

Kỷ sửu, tân sửu

45

Mậu thân

Đất vườn rộng (Thổ)

Canh dần, giáp dần

46

Kỷ dậu

 

Tân mão, ất mão

47

Canh Tuất

Vàng trang sức (Kim)

Giáp thìn, mậu thìn, giáp tuất

48

Tân hợi

 

ất tị, kỷ tị, ất hợi

49

Nhâm tý

Gỗ dâu (Mộc)

Giáp ngọ, canh ngọ, bính tuất, bính thìn

50

Quí sửu

 

ất mùi, tân mùi, đinh hợi, đinh tỵ

51

Giáp dần

Nước giữa khe lớn (Thuỷ)

Mậu thân, bính thân, canh ngọ, canh tý

52

ất mão

 

Kỷ dậu, đinh dậu, tân mùi, tân sửu

53

Bính thìn

Đất trong cát (Thổ)

Mậu tuất, nhâm tuất, nhâm ngọ, nhâm tý

54

Đinh tị

 

Kỷ hợi, quí hợi, quí sửu, quí mùi

55

Mậu ngọ

Lửa trên trời (Hoả)

Bính tý, giáp tý

56

Kỷ mùi

 

Đinh sửu, ất sửu

57

Canh Thân

Gỗ thạch Lựu (Mộc)

Nhâm dần, mậu dần, giáp tý, giáp ngọ

58

Tân dậu

 

Quí mão, kỷ mão, ất sửu, ất mùi

59

Nhâm tuất

Nước giữa biển (Thuỷ)

Bính thìn, giáp thìn, bính thân, bính dần

60

Quý hợi

 

Đinh tị, ất tị, đinh mão, đinh dậu

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét